Trước khi chúng ta đi vào thể thơ Đường Luật, ư kiến riêng của Pham Doanh về luật thơ là:
Chúng ta không nên có chủ trương làm thơ là phải theo luật. Cái chính là hồn thơ ư thơ lồng trong từ ngữ trong sáng, tạo h́nh và âm điệu nhẹ nhàng, trầm bổng và lưu loát. Vần luật là thứ yếu . Chỉ khi nào ta muốn làm theo thể loại nào th́ nên biết cấu trúc và quy tắc về âm thanh vần điệu của thể đó. C̣n không làm theo thể nào th́ là thơ tự do .
Sở dĩ các niêm luật của các thể loại thơ được người làm thơ chú ư và hướng theo v́ bản thân nó qua bao nhiêu đời đă có một nền tảng vững chắc về âm thanh vần điệu, làm định hướng cho những người mới làm thơ .
Nhưng các loại thơ nhiêu khê phát sinh từ Đường Luật, vốn đă chặt chẽ về h́nh thức và bố cục, lại c̣n bày vẽ thêm về các lối g̣ chữ khác như :
- đọc xuôi đọc ngược
- Câu cuối đoạn này làm câu đầu đoạn khác
- Hai chữ cuối một câu cuối làm đầu câu tiếp
- mỗi câu đều mang một con số
- cho 5 vần đặt ra trước để bài thơ phải xử dụng
- Mỗi câu phải chứa một địa danh
etc.
Tất cả những g̣ bó đó chỉ là acrobatics, là Sơn Đông Măi Vơ, chỉ cốt khoe chữ nghĩa, chứ không phải thơ theo cái tinh thần phóng khoáng của người có tâm hồn thơ .
Chúng ta nên biết luật nhất là những người mới làm thơ cần có orientation; luật là h́nh thức, là hướng dẫn để bài thơ ít ra có một khuôn khổ nhất định, có âm điệu căn bản.
Nhưng thà không đúng luật 100 phần trăm mà ư thơ, chữ dùng, âm điệu và vần hay c̣n hơn đúng luật mà ư thơ hạn chế, lời thơ ngây ngô, hoạt kê . Thí dụ như theo luật thơ Đường Luật, phải g̣ bó vào sự đối của bốn câu 3&4 và 5&6. Có những người làm thơ từ chương coi trọng sự đối từng chữ như giáo điều, họ có thể cho một bài có các câu như sau là bài thơ Đường Luật hay v́ các câu đối thật chỉnh dù ư thơ và chữ dùng chẳng có ǵ đặc biệt .
...
Trước ngơ hai ông ngồi ngắm biển
Sau vườn ba cụ đứng xem non
Đă già vẫn tưởng chưa già lắm
Hết trẻ c̣n mơ măi trẻ son
...
hay
...
Tôi đă ba mươi c̣n thích đẹp
Ông chưa sáu chục vẫn yêu đời
Cả làng dân bảo đồ say khướt
Nguyên xóm họ đồn lũ chịu chơi
...
Thí dụ hai câu đúng luật lục bát:
"Cô kia ngồi trước cửa nhà
Thấy xe nước mía từ xa đă cười"
Loại thơ này chỉ làm vè cho vui, nếu chỉ cần đúng luật th́ không lẽ
"Thằng Tây nó giống cột đèn
Vừa cao vừa lớn, lại đen thùi lùi"
cũng là thơ chăng?
Nên hiểu ư thơ đẹp , chữ dùng hay và âm điệu trầm bổng là rượu c̣n luật thơ là b́nh. Cứ khăng khăng giữ đúng cái b́nh thật tṛn trịa mà đựng rượu dở th́ chẳng thà đựng rượu ngon trong một b́nh bẹp tí về h́nh thức c̣n hơn.
Biết luật mà không bị g̣ bó vào luật là h́nh thái cao của thơ.
__________________________________________________
Các Từ ngữ trong luật thơ
Hôm nay Pham Doanh xin phiếm đàm về các từ "Âm Thanh Vần Điệu"
1. Âm:
là gốc của một chữ sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ và các dấu . Như vậy âm bắt đầu bằng một hay nhiều nguyên âm và có thể kết thúc bằng một hay nhiều phụ âm.
Các chữ: Chương, Trương, Ngượng, Vưởng, Hướng đều có cùng một âm nhưng khác thanh.
2. Thanh: là sự khác nhau trong độ cao thấp của một âm.
Trong tiếng Việt các chữ có thể mang 6 thanh là không dấu, sắc, huyền, hỏi, ngă, nặng chia làm hai nhóm có thanh bằng và thanh trắc.
Thanh bằng hay theo tiếng Hán Việt là B́nh Thanh gồm các chữ không dấu và có dấu huyền như câu "chiều hôm qua em đi về" chỉ có toàn b́nh thanh.
Nếu cẩn thận hơn ta có thể chia thành Trung B́nh Thanh (có nơi gọi là Thượng B́nh Thanh) là các chữ không dấu, và Trầm B́nh Thanh (hay Hạ B́nh Thanh) gồm các chữ có dấu huyền.
Thanh trắc hay Trắc Thanh gồm các chữ có dấu sắc, hỏi , ngă và nặng. Như câu "Bữa trước chẳng có băo nặng" chỉ có toàn thanh trắc.
Sự phân biệt giữa Thượng Trắc Thanh: sắc, hỏi, ngă; và Hạ Trắc Thanh: nặng, không có ǵ quan trọng để đáng đi sâu vào .
3. Vần: Hai chữ được gọi là vần với nhau khi chúng có cùng âm và chung một nhóm thanh. Cụ thể là
"anh, đành, thanh, vành, mành" gọi là vần với nhau, cũng như
"đáng, nạng, măng, đảng, đạng" vần với nhaụ
Thơ thí dụ
Ao ước từ xưa măi đến giờ
Đông hành t́m kiếm chút nguồn thơ
Yêu hoa anh biết từ muôn kiếp
Hoa muộn v́ ai cứ ngẩn ngơ
Nguyên Đỗ
Các chữ "giờ, thơ" và ngơ" trong câu 1,2,4 là vần với nhau v́ cùng âm "ơ" và cùng là thanh bằng. ( Chữ "Chớ" tùy cùng âm mà khác nhóm thanh nên không vần với ba chữ trên).
4. Điệu
Ngoài "Âm", "Thanh" và "Vần" là 3 yếu tố chính của thơ "Vần" chúng ta c̣n để ư đến "Điệu" là sự trầm bỗng trong câu thợ Đây là cái mà không có luật nào giúp ta được, thí dụ trong thơ 7 chữ, luật chỉ đ̣i hỏi "Nhị tứ lục" phân minh, tức là các chữ 2,4,6 phải đúng bằng trắc, c̣n "Nhất tam ngũ bất luận", các chữ 1,3,5 tự do .
Nhưng chính cái tự do này là cái khó. Có bài đúng tất cả về luật bằng trắc nhưng đọc lên chẳng êm tai chút nào, như bài này Pham Doanh tự đặt ra làm thí dụ
Chiều nay chẳng biết v́ sao buồn
Có phải tại trời mưa băo cuồng ?
Ngọn gió thổi ngang phía trước đó
Nước mưa làm ngập hai con đường
Bài này tuy đúng tuyệt đối về bằng trắc của Thất Ngôn Tứ Tuyệt nhưng đọc nghe ngang ngang chẳng êm tai chút nào . Nếu ta sửa lại như sau
Chiều nay chẳng biết tại sao buồn
Có phải v́ trời giông băo tuôn ?
Ngọn gió thổi ngang về phía trước
Nước mưa làm ngập cả con đường
Th́ rơ ràng trầm bổng hơn nhờ thay đổi các chữ mà theo luật th́ bằng hay trắc ǵ cũng được. (ở đây ta không để ư dến chữ hay ư thơ chẳng có ǵ)
Cũng như
Đôi ta chia cách tại trời
Nên em phải chịu một đời đau buồn
nghe ngang tai, được sửa lại thành
Đôi ta chia cách tại trời
Nên em phải chịu một đời đau thương
Tóm lại muốn có âm điệu hay nên đọc nhiều thơ người khác và thơ ḿnh. Khi làm xong đừng bằng ḷng với nó ngay mà nên đọc đi đọc lại, đọc ra thành tiếng luôn. Nếu nhờ ai biết ngâm th́ càng tốt, xem âm điệu có êm tai, có du dương không, nhiều khi cùng là thanh trắc mà chữ dấu nặng đọc lên lại khắc với dấu sắc, v.v.
___________________________________________________
Liên vận, cách vận
Cước vận, yêu vận
Chính vận và Cưỡng vận
Vần điệu là hai yếu tố quan trọng của thơ . Thơ th́ thường phải có vần. Các vần ở cuối câu gọi là cước vận, đa số các thể thơ trong mọi ngôn ngữ đều là cước vận.
Thơ Thí dụ:
Lắm lúc mài dao hỏi sắc không (?)
Lửa than cháy đỏ sợi tơ hồng
Hét lên một tiếng dừng tay. Ngộ
Thuyền vào đến bến chẳng qua sông
Vuong Tran
Sầu đông chi nữa hỡi sầu đông
Người đă xa xôi, cách biệt ḷng
Đường chiều sợi nắng nằm thiêm thiếp
Ai đứng bên cầu ngơ ngác trông
Sầu đông
Vần ở các chữ cuối câu 1,2,4
Đặ biệt các thể thơ lục bát và song thất lục bát của Việt Nam ta lại có thêm vần ở giữa câu gọi là yêu vận.
Thí dụ:
Em ơi xin khóc một lần
Lệ rơi trôi hết duyên phần đổi thay
Trăm năm duyên nợ ai bày ?
Để em và chị buồn lây cuộc đời
Van Hac
Chữ lần cuối câu 1 vần với chữ phần ở giữa câu 2.
Trăng lên cao- thấp , trăng tà ?
Nhớ chưa có tuổi đă già nhớ thương ?
Nay , mai , mốt nọ … lẽ thường
Riêng tôi , đời bỗng ngưng dừng từ đây !
__________________
YVHT
Chữ tà cuối câu 1 vần với chữ già ở giữa câu 2.
Lại có hai loại vần, liên vận hoặc cách vận là hai câu đi liền nhau hoặc cách nhau có cùng một vần.
Thí dụ cho liên vận
Cảm ơn anh đă đến giữa cuộc đời
Cho em cả một bầu trời dịu ngọt
Cho b́nh minh chim mừng đua nhau hót
Cho nắng chiều thôi vàng vọt héo hon
Cảm ơn anh tô thắm chữ sắc son
Qua năm tháng không hao ṃn, thay đổi
T́nh anh cho, từng đêm em kê gối
Ru giấc nồng, đi vào cơi thiên thai
Gio Xuan
bắt đầu từ câu hai, các câu đi chung cặp 2,3 hay 4,5 ; 5,6 có cùng vần
Thí dụ cho cách vận
sáng hôm nay , tiếng chuông nào báo thức
ta giật ḿnh, bật dậy , chực ra đi
ḷng cứ tưởng sương, nắng nào thúc giục
th́ ra mưa đang gơ, rất thầm th́
Nnguong
Bạn của nó, con bé gầy xơ xác
Thường ôm bao, nhặt bả mía bên đường
Mười lăm tuổi mà nhỏ c̣n đẹt ngắt
Mắt nhỏ buồn man mác những đau thương
Gio Xuan
___________________________________________
THĂM MỘ _tặng người tri kỉ
Con đường cũ chiều nay mưa ướt quá
Cỏ chẳng ai chăm lại mọc đầy
Minh quên hết nỗi buồn đời dối trá
Gió lạnh lùa giá rét đôi tay
Về lối cũ ḷng ngập tràn nỗi nhớ
Mưa buồn cuối phố lại bay bay
Bạn biết đấy những nỗi buồn vô cớ
Kỉ niệm ùa về đọng lại đây
Ḿnh đă quen trên con thuyền độc mộc
Kể từ ngày trần thế hết vấn vương
Nhưng làm sao bạn mỉm cười lên được
Khi họ nh́n ḿnh ánh mắt xót thương
Câu thơ cũ vẫn vẳng lên mỗi tối
Một trí thức hênh hoang_một kiếp người
'Người bị đuổi khỏi thiên đường êm mát
Đó là tôi thưa thượng đế là tôi...'
Trời lạnh giá sương vờn ngôi mộ mới
Lại một ḷng trinh bạch thác trần ư?
Nếu kkhông vướng những dây đời rắc rối
Ḿnh nguyện ch́m vào cơi vô hư
Nhưng dẫu nói th́ cuộc đời vẫn thế
Chẳng thể thành môt kẻ chẳng ai sinh
Và tiếng thét dẫu rằng hơi nhỏ bé
Cũng phải từ một ư chí chiến chinh
Mưa Muộn
Câu 1 vần với câu 3, c̣n câu 2 vần với câu 4.
Chính vận là hai chữ hoàn toàn có cùng âm sau khi bỏ các phụ âm ở đầu chữ, thí dụ
Những niềm vui quá đỗi mong manh
Ngày mong đợi đốt ḷng anh giá lạnh
Bài thơ cũ bụi tràn thần thánh
Tiếng dương cầm long lanh long lanh
tranminhhien
Các chữ manh, lạnh, thánh, và lanh là chính vận .
Nhiều khi hai vần không được chỉnh lắm nhưng hai âm tương tự nhau th́ gọi là cưỡng vận, thí dụ như "đường & vang (thay v́ vương)", "nhài & hoài" "tay & đây" "cùng & hồng", hay "t́nh & thanh", "đêm & im", "đắng & nặn" v.v
Quê ḿnh đầy những tài nguyên
Rừng sâu gỗ qúi: Quế, lim, hương, trầm
Non cao đá quí, mỏ than
Đồng bằng vựa lúa miền Nam nhất nh́
Phu Yen
Nguyên vần với lim, trầm vần với than, Nam.
đêm trăng cảm hóa tâm hiền
ngự trên tuyệt đẳng là em - thiên thần
Thien Nga
Hiền vần với em mà vẫn hay, nếu Thiên Nga v́ chấp nê về luật mà đổi thành (thí dụ)
đêm trăng cảm hóa tâm hiền
ngự trên tuyệt đẳng là tiên -thiên thần
th́ không hay bằng .
Dĩ nhiên chính vận th́ tốt hơn, nhưng nếu g̣ bó vào chính vận mà bỏ một chữ thật hay, diễn đạt được một ư thật đẹp, v́ chữ đó chỉ hao hao trong âm thanh th́ cũng không nên. Trong trường hợp đó nên cân nhắc xem giữ chữ và ư hay giữ chính vận .
__________________________________________________
Chiều sâu của thơ ?
Thật ra mà khó định nghĩa thế nào là thơ có chiều sâu . Một trong những ư nghĩa của thơ là để diễn đạt một ư tưởng, một tâm tư, một rung động của người viết hay tạo một rung động, một suy tư cho người đọc.
H́nh thái khác của thơ là để tả chân một cảnh một vật hoàn toàn khách quan mà không lồng vào ư nghĩa nào và cũng không tạo một suy ngẫm nào .
Ta có thể gọi h́nh thái thứ hai là không có chiều sâu, nhưng loại thơ này rất ít.
B́nh thường người làm thơ ngay cả khi tả cảnh cũng muốn diễn dạt một cái ǵ.
Thơ là kết hợp của h́nh thức (âm, thanh, vần, điệu) và nội dung (ư tưởng, tiêu đề).
Bài thơ hay là đạt được sự hài ḥa của hai khía cạnh đó.
Thơ có tâm tư, có chiều sâu mà không truyền đạt được qua h́nh thức bằng âm thanh vần điệu hay th́ không làm người đọc cảm được tâm tư đó. C̣n thơ không có chiều sâu th́ phải rất hay về h́nh thức để có thể tạm gọi là thơ, trong trường hợp này thơ như là nhiếp ảnh hay hội họa, sự thành đạt hay không, ḥan toàn nhờ kỹ thuật và chủ đề.
"Tác phẩm" nào không đạt được một trong hai khía cạnh đó th́ không phải là thơ .
Thí dụ như
"Có hàng quán nhỏ góc đường
Những người lao động vẫn thường đến đây
Ngồi trong bóng mát ṿm cây
Ly cà phê tỏa khói bay dật dờ
Đôi khi ngă một ván cờ
Gặp người ngang sức cả giờ chưa xong
Cho dù xuân hạ thu đông
Trên đường xe cộ hai ḍng ngược xuôi".
Bài này PD cố ư làm để thí dụ cho thơ "không có chiều sâu", chẳng để lại một ấn tượng ǵ cho người đọc trừ vần điệu đúng quy luật.
"Ngôi hàng tiều tụy bên đường
Nơi người bán dạo vẫn thường nghỉ chân
Cả ngày vất vả tảo tần
Gánh hàng c̣n nặng, nợ nần chưa vơi
Đổ bao nước mắt mồ hôi
Mà sao chẳng hết một đời long đong
Ngày qua nắng hạ mưa đông
Đôi quang gánh nặng cho c̣ng tấm thân".
Khi chuyển sang version thứ nh́, bài thơ đă có chút chiều sâu, không mang tính cách bàng quang; nhưng về h́nh thức th́ chỉ tạm được thôi v́ bài thơ cố ư làm chứ không phải từ một xúc cảm.
Bài thứ ba th́ khác hẳn
"Tôi nh́n bóng, bóng nh́n tôi
Nh́n lâu thấy lạ lại thôi không nh́n
Như tôi
bóng cũng im ĺm
Như tôi
bóng cũng đang t́m kiếm tôi".
Bài này chỉ mượn câu đầu làm khung cảnh để dẫn vào một tâm trạng.
Nói tóm lại thơ hay như một thiếu nữ được cả về dung mạo và tâm hồn.
- c̣n tiếp -
Phạm Doanh
--------------------------------------------------------------------------------
Đại cương về các thể thơ thường gặp (2)
Thơ Đường Luật
Luật Thơ Đường Đơn Giản hóa
Thơ đường luật về h́nh thức th́ có thể nói đơn giản như sau:
Luật (1.) 8 câu, bảy chữ mỗi câu ("Thất ngôn bát cú")
Luật (2.) Chữ cuối câu 1,2,4,6,8 (câu đầu và tất cả câu chẳn) phải cùng một vần nhưng là 5 chữ khác nhau trừ khi cùng chữ nhưng khác nghĩa (thí dụ: trái mơ và giấc mơ).
(2.1) Chữ cuối câu 1,2,4,6,8 có cùng thanh bằng hay trắc nhưng thường th́ thanh bằng dễ nghe hơn.
(2.2) Chữ cuối câu 3,5,7 là trắc nếu chữ cuối câu 1,2,4,6,8 là bằng và ngược lại .
.
Luật (3.) Chữ 2,4,6 trong mỗi câu phải đúng luật bằng trắc, chữ 1,3,5 sao cũng được cốt là nghe hoà hợp trong cả câu .
"Nhất tam ngũ bất luận,
Nhị tứ lục phân minh"
Luật (4.) Luật bằng trắc rất dễ, chỉ cần nhớ là trong hai câu đầu các chữ 2,4,6 thay đổi nhau
(4.1)
B,T,B
T,B,T
(4.2) rồi mirror 2 câu, sẽ có luật của 4 câu
B,T,B
T,B,T
------ mirror
T,B,T
B,T,B
(4.3) xong mirror 4 câu sẽ có luật của cả bài 8 câu
B,T,B
T,B,T
T,B,T
B,T,B
------ mirror
B,T,B
T,B,T
T,B,T
B,T,B
Đây là luật cho các chữ 2,4,6. Như đă nói chữ 1,3,5 sao cũng được và chữ 7 th́ theo luật số (1).
Thí dụ
Chiều tĩnh tâm
Ngôi chùa mái đỏ ngự trên đồi
Nh́n xuống ḍng sông nước chảy xuôi
Bến vắng thuyền neo, neo đợi khách
Sông sâu sóng vỗ, vỗ ru đời
Thiền sư tĩnh tọa suy tiền hậu
Cư sĩ trầm ngâm nghiệm khứ hồi
Mây trắng giăng giăng chiều nắng nhạt
Hồi chuông xoa dịu kiếp con người .
Pham Doanh
___________________________________________
Cảm Tác
Chiều nay gió lạnh mờ hơi sương
Run rẩy cành trơ tuyết ngập đường
Nhớ thuở cơ hàn nơi xứ lạ
Thương thời lận đận lúc tha hương
Mây bay gió thoảng khơi tâm sự
Tuyết phủ sương mờ gợi vấn vương
Đất khách quê người xin gởi gắm
Nửa hồn c̣n lại kiếp lưu phương .
Gia Phong
___________________________________________
Ải Nam Quan
Hết rồi ơi hỡi ải Nam Quan
Lệ đổ ḷng đau hận ngút ngàn
Gió Bắc vênh vang cười chiến thắng
Rừng Nam thổn thức khóc suy tàn
Buôn dân một Đảng mê quyền vị
Bán đất dăm tên hám bạc vàng
Chưa đánh đă nhường ôi nhục nhă
Tủi hờn Sông Núi kiếp nô bang
ThôngGià
Luật (5.) nếu lật ngược câu 2 và câu 1 trong luật (4.1) và áp dụng (4.2) và (4.3)
th́ sẽ có như sau
(5.1)
T,B,T
B,T,B
(5.2)
T,B,T
B,T,B
---------- mirror
B,T,B
T,B,T
(5.3)
T,B,T
B,T,B
B,T,B
T,B,T
---------- mirror
T,B,T
B,T,B
B,T,B
T,B,T
Thí dụ
Vết tử thương
Người chiến binh kia ngă xuống rồi
Vết thương trên ngực máu c̣n tươi
Thù nhà trả hết tṛn câu hứa
Nợ nước đền xong cả cuộc đời
Nh́n lá quốc kỳ bay phất phới
Biết quân kháng chiến thắng nơi nơi
Một hơi thở cuối trong lồng ngực
Mắt nhắm, ḷng yên, nhẹ nét cười .
Luật (6.) các câu 3,4 và 5,6 phải đối nhau về ư và về tự loại
(chữ nào câu trên là verb/noun/adjective th́ chữ ở vị trí đó của câu dưới cũng là verb/noun/adjectiv ...)
Thí dụ
Thù nhà trả hết tṛn câu hứa
Nợ nước đền xong cả cuộc đời
Thù nhà ---> nợ nước (compound noun)
trả ---> đền (verb)
hết ---> xong (adverb)
tṛn ---> cả (adverb)
câu hứa ---> cuộc đời (compound noun)
Bến vắng thuyền neo, neo đợi khách
Sông sâu sóng vỗ, vỗ ru đời
Bến ---> Sông (noun)
vắng ---> sâu (adjective)
thuyền ---> sóng (noun)
neo, neo ---> vỗ, vỗ (verb, repeated)
đơị ----> ru (present participle)
khách ----> đời (noun)
Thơ thí dụ
Thoảng Ngát Tri Âm
Bạn hăy cùng ta cạn chén đầy
Hàn huyên tâm sự mấy lời say
Thả trôi cay đắng đầy bi lụy
Buông lỏng ngậm ngùi lúc quắt quay
Muợn nguyệt đề thơ ngày hội ngộ
Nhờ mây vẽ cảnh phút men cay
Lỡ mai tóc bạc không về cội
Vẫn ngát tri âm những chuỗi ngày
Triệu Minh
___________________________________________________
TẮT LỬA L̉NG
(NỖI L̉NG LAN)
Ai xui đôi lứa lỡ duyên đầu
Chàng thiếp tơ t́nh đă khắc sâu
Cứ ngỡ trần gian là cơi phúc
Nào hay dương thế chốn đa sầu
Mượn câu kinh Phật vui mùi đạo
Cậy bóng từ bi lấp biển dâu
Xác bướm nhành lan vùi một mộ
Dây chuông núm ruột cắt ḷng đau
Chu Hà
________________________________________________
Giấc Mơ Buồn
Đêm qua mơ ngủ thấy Quê Hương
Thăm lại trường xưa với phố phường
Cây Điệp đầu làng c̣n tắm nắng
Gốc Bàng cuối ngơ vẫn phơi sương
Dạo nh́n lớp học, ḷng xao xuyến
Đứng ngắm sân cờ , dạ vấn vương
Bè bạn Thầy Cô t́m chẳng gặp
Giật ḿnh tỉnh giấc, lệ sầu thương
Minh Long
_____________________________________________
Thi Khách
Rượu phá thành sầu tri kỷ say
Mây mưa tuyết nắng ướp lời hay
Trăng ngang cánh liễu t́nh thơ nhả
Gió gợn hồ sương ư trút bày
Giai điệu tơ đan hồn tưởng vọng
Hồ trường giọt ấm chí ngời bay
Gom hương vẫy bút ngh́n âm điệu
Nối bước người xưa lộng gió mây
Cát Biển
Không bắt buộc phải từng chữ đối chọi với nhau, mà cả nhóm chữ thành 1 loại cũng được, như ba chữ tạo thành nhóm danh từ th́ đối với 3 chữ câu kế cũng tạo thành nhóm danh từ, chứ không bắt buộc từng chữ trong nhóm phải đối chọi nhau . Cần nhất là đối ư thôi. Dĩ nhiên là hoàn chỉnh tất cả là hay nhất, nhưng như đă nói, b́nh đẹp không bằng rượu ngon.
____________________________________________________
Trong bố cục của thơ Đường Luật, mỗi một câu đều có chức năng của nó:
hai câu đầu (1,2) là đề bài . Câu 1 là phá đề, câu hai là thừa đề (chữ thừa có nghĩa là nối theo câu phá để vào bài).
hai câu 3,4 c̣n gọi là Thực hay Trạng dùng để giải thích đầu bài cho rơ ràng. hoặc cũng có thể dùng để đưa thêm chi tiết bổ nghĩa .
hai câu 5,6 (Luận) bàn bạc hay bàn luận cho rộng nghĩạ cũng có thể dùng như câu 3,4 đưa thêm chi tiết.
hai câu cuối 7,8 (Kết) tóm ư nghĩa của toàn bài và thắt ư lại .
Thí Dụ
Bực ǵ bằng gái chực pḥng không
Tơ tưởng v́ chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Nguyễn Khuyến
Có 8 câu bảy chữ nhưng các cụ xưa đă bày thêm rất nhiều thể loại (hơn 20) như
Thủ nhất thanh ( nhất đồng )
Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhaụ
Tám Mừng
Mừng đón xuân về, muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới, mới thêm rạ
Mừng nghe nhựa sống, như c̣n trẻ,
Mừng thấy đời tươi, chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân, đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nh́n xạ
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng măi,
Mừng được trường xuân hưởng thái ḥạ
1986 Lạc Nam
Song điệp
Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :
Chuyện Đời
Vất vất vơ vơ, cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay c̣n chị chị anh anh đó ,
Mai đă ông ông mụ mụ rồị
Có có không không, lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại, chết xong đờị
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơị
Nguyễn Công Trứ
Tính danh
Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh. Giống như Điển Thi, câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu. Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm v́ như thế các cụ mới chịu cho là có học, rộng kiến thức.
Lỗi Thề
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp ǵ câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say măi gái Tầm Dương(4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà (8) mưa gió nẻo cầu sương.
Toại Khang
Láy ba (Vĩ Tam Thanh): Sạch sành sanh-dửng dừng dưng - sát sàn sạt . . .
Ngẫu Hứng
Tiếng gà bên gối tẻ tè te,
Bóng ác trông lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lóe ḷe loẹ
Chim t́nh bè lứa kia ḱa kịa,
Ong, nhĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tị,
Ngủ trưa chửa dậy khỏe kḥe khoẹ
Vô Danh
Tựu trung là những xảo thuật để chứng tỏ người viết giỏi về từ ngữ. Theo thiển ư chỉ có tính cách lạ, như Sơn Đông măi vơ trong làng thơ, c̣n về giá trị thơ th́ không có bao nhiêu.
Từ thơ Đường Luật ta có thể chuyển sang thơ Thất Ngôn Bát Cú một cách dễ dàng. Thơ TNBC có thể gọi là thơ Đường Luật theo h́nh thức về luật bằng trắc nhưng không g̣ bó về đối câu .
Đa số thơ hay của thời đại mới sau 1930 đều là TNBC, chứ Đường Luật chính cống v́ quy luật về bố cục đối câu có tính cách g̣ bó làm cho câu thơ trở nên tù túng, khó mà phát huy cái tính phóng khoáng của thơ .
Một dạng khác của thơ TNBC là Thất Ngôn Tứ Tuyệt là 1 bài có 4 câu hay có nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu . Nếu bài thơ có trên dưới 10 đoạn th́ gọi là Thất Ngôn Tứ Tuyệt Trường Thiên. Điển h́nh là các bài thơ của TTKH.
Loại thơ Tứ Tuyệt Trường Thiên chủ yếu để diễn đạt một tâm t́nh dài hay kể chuyện .
xa vắng
Xa vắng nhau rồi... môi biếng cười
Mắt buồn nhung nhớ cảnh chia phôi
Chong đèn, ghi lại bao hoài cảm …
Cuả phút giây đầu chẳng thể vơi
Xa vắng nhau rồi... ai nhớ không ?
Mây bay nhè nhẹ gió se ḷng
Tơ t́nh người có chăng vương bận ?
Có xuyến xao hồn, có đợi mong ?
Xa vắng nhau rồi... ôi nhớ ghê!
Từng đêm trong giấc mộng say mê
Lời ai t́nh tự kề đôi má
Vui sướng ngập tràn, cười thỏa thuê
Thức tỉnh cho ḷng bỗng tái tê
Mưa sương rơi nhẹ lúc đêm về
Mưa ḷng rả rích câu thương nhớ
Mưa chớm vội hôn mái tóc thề
Mưa cho con phố: vắng, buồn tênh
Mưa tí tách rơi giọt ướt mềm
Mưa thấm vào hồn cho mộng tưởng…
Bên anh mơ ước lại mông mênh
Xa vắng đôi bờ cách biệt nhau
Lệ sầu theo khoé mắt lăn trào
T́nh yêu lư giải ra sao nhỉ !?
Vương vấn để ḷng măi khổ đau !
Phương Vy
3.03.03
Nhưng phổ thông nhất vẫn là Thất Ngôn Bát Cú, gói trọn một ư thơ vào 8 câu, không dài không ngắn. Không phải bài TNBC hay TNTT nào cũng là thơ Đường Luật, thí dụ như bài
Dựng
Đàn rưng rưng lệ phách dồn mưa
Tiếng hát tàn rơi hận thuở xưa
Bụi nhuốm Thiên Thai nḥa hứng rượu
Đời sau say giúp mấy cho vừa
Cô đơn men đắng sầu trăng bến
Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa
Nhịp đổ càng mau nghe ríu ríu
Tê rời tay ngọc lúc buông thưa
Vũ Hoàng Chuơng
Ghé Bến Trần Gian
Người Say muôn thuở ghé qua chơi
Nhựa níu men chào tóc lả lơi
Chau chuốt ân cần thôi uổng quá
Giợ phàm đâu buộc cánh chơi vơi
Cuộc đi khói rượu thơ t́nh mộng
Ăm ắp đầy then chẳng mượn đời
Hứng sẵn neo thuyền ghi chút cảm
Buông về cao rộng mấy trùng khơi
Vũ Hoàng Chương
(Trong các bài nay tác giả thoát ra ngoài cái g̣ bó của đối câu trong Đường Luật nhưng giữ tuyệt đối về luật bằng trắc, bài 1 có niêm và bài 2 không có niêm)
Xin nói thêm là "niêm" càng là 1 sự g̣ bó không cần thiết và nhiều bậc thi hào đă bất chấp luật niêm ngay cả trong những bài thơ Đường nổi tiếng như
Bà Huyện Thanh Quan với
Qua Đèo Ngang
Qua đỉnh đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh t́nh riêng, ta với ta
Các cặp 2,3 và 1,8 không niêm với nhau ở chữ đầu
__________________________________________________
c̣n Thất Ngôn Tứ Tuyệt th́ đầy rẫy trong thi ca tiền chiến hay hiện đại như của TTKH, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Quang Dũng etc. và có lẽ là các bậc thi sĩ đó không cho tác phẩm ḿnh là thơ Đường Luật.
Đời Vắng Em Rồi
Sóng dậy đ́u hiu biển dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay lần cuối
Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái lỡ t́nh
Này đêm tri ngộ xót điêu linh
Niềm quê sực thức ḷng quan ải
Giây phút dừng chân cuộc viễn tŕnh.
Tóc xơa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đă vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy
Nắng mưa đă trải t́nh nhân thế
Lưu lạc sầu chung mộng hướng say
Gặp gỡ chừng như truyện Liễu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai ?
Phương Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé bến nào đây người hải ngoại
Chiều sương mặt bể có mơ màng.
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không
Mà đây ḷng trắng một mùa đông
Tương tư nối đuốc thâu canh đợi
Thoảng gió trà mi động mấy bông.
Vũ Hoàng Chuơng
____________________________________________
Bài ca hạnh ngộ
Bài thơ hạnh ngộ đă trao tay,
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này ?
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
Nửa như hoài vọng, nửa như say .
Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,
Hương ngàn gió núi động hàng mi .
Tâm tư khép mở đôi tà áo,
Ḥ hẹn lâu rồi - Em nói đi .
Em muốn đôi ta mộng chốn nào ?
Ước nguyền đă có gác trăng sao .
Truyện tâm t́nh: dưới hoa thiên lư,
C̣n lối bâng khuâng: ngơ trúc đào .
Em chẳng t́m đâu cũng sẵn thơ .
Nắng trong hoa, với gió bên hồ,
Dành riêng em đấy . Khi t́nh tự,
Ta sẽ đi về những cảnh xưa .
Rồi buổi ưu sầu em với tôi
Nh́n nhau cũng đủ lăng quên đời .
Vai kề một mái thơ phong nguyệt,
Hạnh phúc xa xa mỉm miệng cười .
Đinh Hùng
_______________________________________
Làm nhiều thơ Đường Luật có cái tai hại là ḿnh bất giác cứ đến câu 3,4, và 5,6 là t́m cách đối câu, nhiều khi làm mất hồn thơ và ư tưởng hay đi v́ câu sau đă bị giới hạn và g̣ bó bởi câu trước .
Những bài thơ của Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương trong thí dụ kể trên tuyệt đối không phải là thơ Đường hay thơ Đường Luât. Họ chỉ dùng thể cách thất ngôn tứ tuyệt hay thất ngôn bát cú.
Một bài TNBC không đúng niêm luật th́ không thể gọi là Thơ Đường Luật.
Vấn đề nêu ra cho người làm thơ là một bài Đường Luật đúng h́nh thức mà kém vế nội dung có so sánh được với thơ VHC, Quang Dũng không theo luật không? Không theo chứ không phải không đúng, VHC thừa biết luật và thừa sức làm Thơ Đường Luật chứ, và chính ông cũng có vài bài Đường Luật chính tông, nhưng hơn 90% thơ ông không phải là Đường Luật.
H́nh thức là b́nh c̣n nội dung là rượu. Rượu ngon hay b́nh đẹp, đó là vấn đề của chúng ta. Rất nhiều người khư khư vào niêm luật mà chỉ sản xuất được vè.
Đó là lư do tại sao Thơ Đường Luật bị xao lăng bởi các nhà thơ nổi tiếng tiền chiến và hiện đại.
Dĩ nhiên là thơ Đường Luật có cái hay của nó nhưng cũng có cái giới hạn, cái g̣ bó chỉ hợp với cách học từ chương ngày xưa. Phong trào thơ mới tiền chiến đă mạnh dạn tách xa Tú Xương, Cao Bá Quát, bỏ qua loại thơ tự thán, tự trào hay vịnh món này vật nọ.
Nếu thế hệ ông cha chúng ta không có cái nhất quyết đó th́ ngày nay chẳng có những tác phẩm thật lăng mạn thật tinh tứ mà chỉ toàn là loại thơ đối câu đối chữ .
Thơ Đường Luật có chỗ đứng của nó trong lịch sử . Nhưng hiện tại vị trí của nó không phải là độc tôn. Người làm thơ không nên tự giới hạn ḿnh chỉ vào thể thơ này. Đó là điều Pham Doanh nhận thấy sau khi làm hơn trăm bài Đường Luật .
Ngày trước trong net đă có một "nhà thơ" lớn tiếng cho rằng thơ ĐL rất khó làm v́ đối câu khó lắm, trong khi "nhà thơ" đó chỉ cho ra những câu đối đại loại
Trong nhà cô gái đang lau bát
Ngoài ngơ chàng trai mới rửa xe
và cho đó là đối rất chỉnh rất hay .
Chỉnh th́ chỉnh thật, nhưng hay th́ c̣n tùy người đọc .
Vấn đề ở đây không phải là đả phá thơ Đường Luật nhưng là để nêu rơ vị trí và giới hạn của nó trong thi ca hiện đai. Nhất là thể thơ Đường Luật chặt chẻ chỉ thích hợp cho vịnh cảnh vật, vịnh tâm sự c̣n khó mà thích hợp cho t́nh yêu lăng mạn. Đă có được bao nhiêu bài thơ cho t́nh yêu hay mà giữ đúng thể ĐL?
Giữ h́nh thức thất ngôn với các hướng dẫn về âm thanh vần điệu và bỏ sự g̣ bó của đối câu đă là một bước dài giúp cho hồn thơ được giải phóng trước khi bước sang các thể thơ tự do hơn.
Vài ư kiến đóng góp để cho thấy thơ theo niêm luật là một chuyện, thơ làm rung động người đọc là một chuyện khác .
Không phải đồ sứ nào cũng là của Tàu cũng như không phải lấy cái áo xường xám rồi gắn thêm cái đai là thành áo dài Việt Nam.
Các cụ học từ chương cho việc viết thành câu có "ẻo èo eo" "đẻo đèo đeo", hay liên hoàn liên vận làm mất hẳn cái trong sáng của thơ Đường Luật rồi cho là độc đáo lắm.
Người làm thơ mà chỉ lo g̣ chữ th́ dễ dàng đi vào trọng h́nh thức mà xao lăng nội dung, thơ chỉ có kỹ thuật mà vô hồn th́ như người thợ vẽ vẽ con ngựa thật chính xác mà không cho thấy cái sống động của vó câu tung trời th́ chẳng uổng tài lắm sao?
Giá trị thi ca của một bài thơ ở chỗ nào, nếu trong 7*8=56 chữ đă phí phạm đi 3*8=24 cho các loại "tẻ te te".
Tai nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Non một chồng cao von vót vót
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe
Chim t́nh bầu bạn kia ḱa kỉa
Ong nghĩa vua tôi nhe nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
............................
Vô danh
Nếu bỏ các chữ vô nghĩa đó đi th́ cả bài thơ giống như bài sớ Táo Quân mà thôi
Tai nghe gà gáy
Bóng ác vừa lên
Non một chồng cao
Hoa năm sắc nở
Chim t́nh bầu bạn
Ong nghĩa vua tôi
Danh lợi mặc người
..................
Vô danh
Loại thơ trên chỉ làm người đọc cười trong chốc lát như kịch Phi Thoàn, Tùng Lâm. Nó được truyền tụng lại cũng do những ư kiến cho đó là độc đáo và mang sắc thái dân tộc.
Thơ Đường Luật chính tông có sự g̣ bó của nó nhưng không có các kiểu vẽ rắn thêm chân như các biến dạng đó.
--------------------------------------------------------------------------------
Ta,
Người chưa diệt chữ t́nh
Mong ǵ ngộ giác
Giữa thinh không này .